Lời khai thị đôi khi là câu nói bình dị

2022-08-20 in Bài Viết

          Mỗi người có những nhân duyên khác nhau để tiếp xúc được với đạo. Có người tiếp nhận đạo lý bằng sự nghiên cứu kinh sách, có người nhờ lắng nghe pháp thoại, có người thì thực hành thiền quán, có người chỉ cần thấy một chiếc lá rơi hay nghe một câu nói bình dị mà trực nhận ra lẽ thật của cuộc sống, v..vv… Đối với tôi, thì nhờ vào sự thao thức tìm cầu học hỏi đạo lý nên có chút duyên lành gặp được các bậc minh sư chỉ giáo.

     Gặp gỡ mỗi vị Thầy đều được khai thị cho tôi khác nhau, nhưng vị Thầy đặc biệt nhất trong đời của tôi đó là Hòa Thượng Viên Minh, mà mọi người hay dùng từ ngữ gần gũi là Thầy Viên Minh. Trước khi gặp Thầy, tôi đã đọc quyển sách Thực Tại Hiện Tiền, những lời dạy của Thầy trong sách đã giúp cho tôi sáng ra nhiều thứ. Thế là lần đầu tiên vào một buổi chiều nọ, đầu năm 2009 tôi xin đến để gặp Thầy học đạo, sau gần 2 giờ đàm đạo tôi nghe tiếng chuông báo đến giờ công phu chiều tức là ngồi thiền tụng kinh, nên tôi xin phép Thầy ra về để cho Thầy đi công phu. Thầy liền nói rằng: Tôi đang ngồi nói chuyện với thầy cũng là công phu rồi đó. Thưa quý vị, chỉ một câu nói bình dị như thế mà đối với tôi là lời khai thị đặc biệt. Bởi vì, qua những năm tháng tu hành, tôi đã hình thành quan điểm rằng, tu thì phải có thời khóa ngồi thiền, niệm Phật, tụng kinh, lạy Phật… chứ đâu phải ngồi đó nói chuyện với nhau! Tuy nhiên, sau khi nghe Thầy nói như thế khiến tâm tư tôi bừng sáng về sự tu hành của mình trong đời sống.

     Và từ đó, tôi thường xuyên qua lại tham vấn, học hỏi từ các khoá giảng của Thầy, cũng như sự cảm nhận giữa tôi và Thầy rất thân thiết gần gũi, như đã từng quen biết nhau từ thủa nào! Tôi nói như thế, là vì mỗi khi được ngồi đàm đạo với Thầy thì rất là thoải mái tự nhiên, không bị ảnh hưởng bởi khoảng cách hạ lạp, giáo phẩm, chức vụ, tông phái mà thay vào đó là sự đong đầy ấm áp tình pháp hữu, tình Thầy trò, thế thôi!

     Sau đó, tôi có duyên qua Mỹ định cư hoằng pháp, và tôi đã thỉnh Thầy đến Tu Viện Đạo Viên do tôi sáng lập để thuyết giảng. Hai Thầy trò đã dành một buổi để đi bộ trong rừng với nhau, sáng ngày hôm đó, có một anh phật tử mời chúng tôi về nhà anh ấy thăm, và anh tặng Thầy một quyển sách từ điển phật học rất dày, và nặng do một vị sư nào đó biên soạn. Anh ta nói với Thầy, “quyển từ điển này hay lắm,con kính tặng Hòa Thượng đem về tham khảo, nghiên cứu”. Thầy nói: “Thầy còn đi giảng nhiều nơi, quyển từ điển này thì nặng nên không tiện mang theo”. Sau đó, tôi và Thầy đi ra ngoài bờ rừng, Thầy chỉ tay vào rừng cây và nói với tôi rằng: con thấy ở đây, rừng cây, mây trời, chim chóc đều là từ điển phật học hết, đâu nhất thiết phải xem từ điển nào nữa”. Trời đất ơi! Lại là một câu nói bình thường giản dị nữa, không có ngôn từ Phật pháp cao siêu gì cả mà lại đánh thức tâm hồn tôi thể nhập vào với pháp sống động mới mẽ đang là… Từ đó, tôi mới vỡ lẽ rằng, pháp là luôn luôn thiết thực với hiện tại (Sanditthiko) chứ không phải trước đó vài phút hoặc là sau đó vài giây. Các pháp đang có mặt đó, ta chỉ cần lặng lẽ hồn nhiên quan sát thì sẽ thấy ra. Những kiến thức hàn lâm khô cứng mà ta đã nghiên cứu, học hỏi, vay mượn từ kinh sách, từ người khác đôi khi nó lại trở ngại che mờ cái thực tại đang là. Hãy để đôi bàn tay của ta không nắm giữ một vật gì trong tay, thì bàn tay ta sẽ tự động làm được mọi thứ.

     Khi ta nhận ra được mọi sự hiện hữu đang diễn ra đều là pháp đang thuyết thì ta không còn kẹt vào tôn giáo, tông phái, pháp môn tu tập của riêng ai, mà chỉ trân quý và biết ơn mọi nhân duyên trong cuộc đời này. Do đó, người đến được với đạo không căn cứ ở trình độ nhận thức, tuổi tác, giới tính hoặc năm tháng tu hành, mà tùy thuộc vào sự thao thức tu học, tinh tấn đúng mức, nhạy bén tiếp nhận và nhân duyên thù thắng vốn có của hành giả.

     Trải qua mấy năm tiếp xúc học đạo với Thầy, tôi luôn mang ơn Thầy hai câu nói bình dị mà tôi đã trình bày ở trên như là lời khai thị cho cuộc đời tu hành của tôi. Cách đây vài tuần, tôi đã gọi điện thoại để thăm hỏi sức khỏe của Thầy và kể lại câu chuyện học đạo đặc biệt này cho Thầy nghe, Thầy rất hoan hỷ! Tôi cũng được biết Hội Huyền Không rằm tháng 02 âm lịch năm tới (2023) là ngày kỷ niệm 50 năm thành lập Chùa Huyền Không, 60 năm Thầy xuất gia và mừng thọ Thầy cùng với Hoà Thượng Giới Đức tròn 80 tuổi. Con rất hoan hỷ xin được chia sẻ với các bạn đồng tu một vài cảm nhận của mình, khi được duyên lành học đạo với Thầy như là lời trình pháp. Con kính chúc Thầy, quý sư và các bạn đồng đạo luôn luôn được mạnh khỏe và an vui!

Hoa Kỳ, ngày 19/08/2022

Viên Ngộ

Bốn điều cần nương theo và không nên theo

2020-12-24 in Bài Viết

1. Y pháp, bất y nhân: Nương vào pháp, mà không nương theo người.
Pháp ở đây là chân lý, là tất cả các sự vật hiện tượng đang diễn ra ở nơi mỗi con người trong giây phút hiện tại. Người học đạo cần thấy rõ sự vận hành của pháp, nương theo thực tại đang diễn ra đó và sống cùng với thực tại ấy.
Nhân là con người, con người ấy có thể là cha, mẹ, anh chị em, là bạn, là thầy và cho dù đó là đức Thế Tôn thì ta cũng không thể nương vào, vì chân lý vốn có sẵn nơi chính mình chứ không nơi khác. Phật hoặc những vị thầy là người chỉ cho ta thấy con đường, còn đi như thế nào, gặp những trở ngại gì… thì tự thân của mỗi người có cảm nhận khác nhau, nên mỗi người cần tự điều chỉnh cho phù hợp với thực tại chân lý, chứ không thể y cứ giống hệt như người thầy. Cố nhiên, chúng ta cần nương vào vị Thầy nào đó để học hỏi đạo lý, nhưng pháp thực hành thì ta phải biết trở về với tự thân của mình để điều chỉnh nhận thức và hành vi trong mỗi phút giây hiện tại chứ không ai khác.

2. Y trí, bất y thức: Nương vào trí tuệ, mà không nương theo nhận thức chủ quan.
Trí là tuệ giác do thực hành giới định mà có, trí tuệ không phải do vay mượn kiến thức xã hội hoặc đọc nhiều kinh sách mà có được. Trí tuệ là cái thấy trong sáng vượt thoát mọi quan điểm, tư duy lưỡng nguyên hữu ngã. Thực tại đang như thế nào thì thấy như thế đó mà không thêm bớt bất cứ điều gì.
Thức là nhận biết có chọn lựa, phân tích chia chẻ, và có thói quen tích lũy những quan điểm kinh nghiệm của quá khứ và dễ dàng áp đặt lên thực tại.
Kiến thức rất cần thiết vì đã giúp cho chúng ta hiểu biết về cơ bản của cuộc sống, nhưng kiến thức không đủ khả năng giúp cho chúng ta vượt thoát ra khỏi phiền não khổ đau.
Người học đạo muốn trực nhận được chân lý thì cần thường trực trở về với chính mình để tâm được định tĩnh, và nương vào cái thấy sáng suốt đang là, chứ không nương theo kinh nghiệm chủ quan, hoặc nhận thức khô cứng do vay mượn học hỏi từ bên ngoài.

3. Y nghĩa, bất y ngữ: Nương vào nghĩa, mà không nương theo ngôn ngữ.
Nghĩa là nội dung, là nghĩa lý thâm sâu được mô tả bởi ngôn ngữ diễn đạt để giúp cho người nghe thông qua ngôn ngữ ấy mà thấu hiểu được vấn đề. Tuy nhiên, có những người do chấp chặt vào lời nói nên không lãnh hội được nội dung của người muốn nói. Do đó, người học đạo cần phải “học hạnh lắng nghe” với tâm định tĩnh sáng suốt để không bị dừng lại vào ngôn ngữ diễn đạt, mới có thể thông suốt được nội dung thâm sâu của người muốn nói.

4. Y liễu nghĩa, bất y bất liễu nghĩa: Nương vào nghĩa lý giác ngộ giải thoát, mà không nương theo nghĩa lý không đem lại sự giác ngộ giải thoát.
Liễu nghĩa là nghĩa lý có chất liệu của chân lý giác ngộ giúp cho con người vượt ra khỏi lục đạo luân hồi. Liễu nghĩa là nghĩa lý cao siêu vượt lên trên những nghĩa lý thông thường của thế gian nên đươc gọi là chân đế.
Bất liễu nghĩa là nghĩa lý bình thường đối đãi tạm bợ trong thế gian cho nên gọi là tục đế. Bất liễu nghĩa không có khả năng giúp cho con người vượt khỏi vòng sanh tử luân hồi.
Tuy nhiên, tùy theo duyên nghiệp, căn cơ và trình độ của mỗi người để tiếp nhận những nghĩa lý khác nhau. Đối với người này thì giáo nghĩa đó phù hợp, nhưng đối với người kia thì chẳng mấy đem lại lợi ích an vui cho họ. Vì vậy, ta không thể nào khẳng định rằng, thể loại kinh văn này là bất liễu nghĩa, còn thể loại kinh văn kia là liễu nghĩa. Ví như với giáo lý tối thượng nhưng đối với người căn cơ tối tăm thì không thể lãnh hội được, nên giáo lý ấy không có ý nghĩa cao thâm đối với họ. Nhưng đối với người căn cơ nhạy bén thì liền trực nhận ra được điểm yếu chỉ thâm sâu nên đối với họ thật tuyệt vời!
Tóm lại, điều cốt lõi là người học đạo muốn thành tựu trí tuệ giác ngộ thì cần nương vào lời chỉ dạy của các bậc minh sư để biết cách ứng dụng hành trì, nhằm có cơ hội khai sáng tâm thức và sống trọn vẹn với từng khoảng khắc hiện tại.

Viên Ngộ

Mái chùa nỗi nhớ

2017-04-02 in Bài Viết

Có những người sinh ra là hành nhân cuộc lữ. Hoặc vì tác động ngoại cảnh gọi mời, hoặc vì khát vọng lý tưởng nội tâm… đành giã biệt quê nhà mà đi.

Giã từ quê nhà, nơi chôn nhau cắt rốn, khách ly canh cánh bên lòng biết bao hình ảnh thân thương: cha mẹ, bà con thân thuộc; lũy tre hàng chuối, bến sông giếng nước đầu làng. Và chẳng hay tự bao giờ, hình ảnh mái chùa đã hòa quyện làm một với quê hương làng nước. Thế nên, với ly khách, hình ảnh ngôi chùa là hình ảnh tác động sâu lắng nhất, đậm nét nhất trong tâm thức.

Ai đã từng đọc thơ Nguyễn Bính:

Quê tôi có gió bốn mùa

Có trăng giữa tháng có chùa quanh năm

Sương hôm gió sớm trăng rằm

Chỉ thanh đạm thế, âm thầm thế thôi

Mai nầy tôi bỏ quê tôi

Bỏ trăng, bỏ gió, chao ôi bỏ chùa!

Ông Nguyễn Bính bảo quê ông có gió bốn mùa, trăng giữa tháng… nhưng chùa thì có cả quanh năm. Phải chăng cái “có” ấy như là cái có tất yếu, cái có thường trực, cái có bất khả phân ly với quê hương. Và hình như cái có ấy lấn trùm lên mọi quê hương làng mạc Việt Nam, từng thấm đẫm nề nếp văn hóa làng mạc, văn hóa Phật giáo Việt Nam…

Bỏ trăng, bỏ gió có thể bỏ dễ dàng nhưng khi phải bỏ cả chùa thì thi nhân Nguyễn Bính có cảm giác rợn người như đang vấp phải nỗi đau đứt ruột, nên mới thốt lên hai âm tiết thần tự giữa câu thơ lục bát: “chao ôi”!

Nỗi đau lớn nhất trong tâm thức ly khách là phải bỏ ngôi chùa thân thương mà đi, bỏ lại tiếng chuông sớm tiếng mõ chiều đầm ấm quen thuộc mà đi… Vì vậy, trên vạn dặm đường đời, trên dặm trường cát bụi, nỗi nhớ quê nhà man mác, bao giờ hình ảnh ngôi chùa vẫn là hình ảnh đặc thù, sâu đậm được nhớ về, nhớ lại nhiều nhất, bâng khuâng, da diết nhất…

Hãy cùng lắng nghe thi sĩ Huyền Không nhớ chùa:

Tự thuở ra đi vắng bóng chùa

Đường đời đã nhọc chuyện hơn thua

Trong tôi bừng dậy niềm chua xót

Xao xuyến mơ về lại cảnh xưa.

Hệt như nhà thơ Nguyễn Bính, cất bước ra đi là canh cánh bên lòng nỗi nhớ. Nỗi nhớ chùa. Ra đi mà hanh thông yên ả thì có thể nỗi nhớ chùa nhẹ nhàng hơn tí chút. Ra đi mà vấp phải lao nhọc vì chuyện hơn thua trên đường đời thì nỗi nhớ chùa càng xuyến xao da diết bội phần.

Mà nhớ chùa thì đâu phải chỉ nhớ nhung duy nhất hình ảnh mái chùa. Nhớ chùa là nỗi nhớ mênh mang trùm cả cảnh chùa. Mà cảnh của chùa không chỉ là cảnh riêng của mái chùa kia. Cảnh của chùa chính là toàn cảnh của quê hương làng nước, toàn cảnh của cả một vùng miền văn hóa đình chùa miếu vũ khắng khít với tổng thể ngàn năm văn hiến Việt Nam:

Thấp thoáng đâu đây cảnh tượng làng

Có con đường đỏ chạy lang thang

Có hàng tre gợi hồn sông núi

Im lặng chùa tôi ngập nắng vàng.

Đường đất đỏ, hàng tre xanh… hồn sông núi đó quyện với cảnh của chùa, hồn của chùa:

Có những cây mai sống trọn đời

Bên hàng tùng bách mãi xanh tươi

Nhìn lên phảng phất hương trầm tỏa

Đức Phật từ bi mỉm miệng cười.

Những cây mai, cây tùng, cây bách sống trọn đời là bao nhiêu tuổi? Là những mấy trăm năm? Từ ngữ trọn đời khiến người đọc liên tưởng đến độ lâu độ bền, độ không tính đếm được… Đã bao nhiêu năm tháng rồi nơi điện thờ trầm lặng ấy vẫn phảng phất khói hương trầm. Và nụ cười mỉm từ bi vô lượng của đức Phật vẫn cứ mãi mãi như là nguồn ân phước ban phát cho muôn loại quần sinh. Ngôn ngữ bình dị mộc mạc, chân chất, trong sáng của câu thơ “đức Phật từ bi miệng mỉm cười” khiến bạn đọc cảm xúc đến rưng rưng nước mắt. Hình ảnh đức Phật sao mà gần gũi thân thương với chúng ta, với dân làng xóm thôn đến vậy?

Khi đã giới thiệu với người đọc nỗi nhớ một tổng thể bối cảnh thanh bình, an lạc của ngôi chùa với quê hương xứ sở với làng mạc xóm thôn nơi chôn nhau cắt rốn, thiền sư thi sĩ Huyền Không người làng Phương Lang còn nói thêm cho chúng ta nghe nếp sinh hoạt thiền vị nhẹ nhàng thanh thoát, bản sắc truyền thống hàng trăm năm, trú dạ lục thời, bốn mùa tám tiết nơi ngôi chùa đó:

Tôi nhớ làm sao những buổi chiều

Lời kinh giải thoát vọng cao siêu

Đây ngôi chùa cổ ngày hai buổi

Cầu nguyện dân làng sống mến yêu.

Lời kinh giải thoát cùng tiếng mõ cốc, tiếng chuông ngân… vang vọng cao siêu đến chín tầng trời, ngân nga trầm tích đến bảy tầng địa ngục… ấy chính là pháp âm mầu nhiệm vỗ về hôm sớm cho dân làng ngày hai buổi, sớm đến tối, ngày rồi đêm, sống mà biết mến yêu nhau, đùm bọc che chở lẫn nhau, tối đèn tắt lửa có nhau.

Vì vậy đâu cần phải có cao lương mỹ vị, chẳng vòi vĩnh gì nem công chả phượng, bánh tôm Hồ Tây, chả cá Lã Vọng… chỉ sắn khoai gạo bắp, chỉ với ánh trăng thanh, với ngọn gió lành, với tiếng chuông chùa ngân xa lan xa… thứ lương dược, thiền duyệt thực ấy đủ để nuôi sống dân ta, sống cuộc đời thanh cao, sống cuộc đời bình dị, thanh thản giữa quê hương làng nước thanh bình…

Tôi nhớ làm sao những buổi chiều

Lời kinh giải thoát vọng cao siêu

Đây ngôi chùa cổ ngày hai buổi

Cầu nguyện dân làng sống mến yêu.

Vì vậy làng tôi sống thái bình

Sớm khuya gần gũi tiếng chuông linh

Sắn khoai gạo bắp nuôi dân xóm

Xây dựng tương lai xứ sở mình.

Mỗi tối dân quê đón gió lành

Khắp chùa dào dạt ánh trăng thanh

Tiếng chuông thức tỉnh lan xa mãi

An ủi dân lành mọi mái tranh.

Trầm đốt hương thơm bay ngạt ngào

Thôn trên xóm dưới dạ nao nao

Dân làng tắm gội lên chùa lễ

Mười bốn ba mươi mỗi tối nào.

Nếp sinh hoạt mang tính thời khóa biểu nhà trường giữa trường đời đó của dân làng đã trở thành nỗi nhớ thường trực trong tâm khảm khách tha hương. Dù xa ngàn dặm không biết ở phương sở nào, từng ngày từng tháng từng năm, thì nhà thơ vẫn cảm thấy mình cũng như đang hòa mình làm một với nếp sinh hoạt nề nếp muôn đời đó.

Ôi! Cha ông chúng ta hiền lành chất phác dung dị, một nắng hai sương, chân lấm tay bùn… mồ hôi mồ kê dầu dãi, nhưng cứ mười bốn ba mươi… cứ tắm gội sạch sẽ rồi thì lên chùa lễ Phật.

Nề nếp sinh hoạt, nhu cầu văn hóa tín ngưỡng ấy gắn bó hữu cơ với tâm thức với máu thịt mình. Và khi chưa có được điều kiện thuận thường đặt những bước chân quy hồi cố quận… nhà thơ vẫn cứ bâng khuâng dằng dặc: gởi nhớ nhung về. Và dù có bao nhiêu tang thương dâu bể đổi thay nhà thơ vẫn canh cánh tâm thành cầu nguyện cho chùa khỏi tái tê.

Biết đến bao giờ trở lại quê

Phân  vân lòng gởi nhớ nhung về

Tang thương dù có bao nhiêu nữa

Cũng nguyện cho chùa khỏi tái tê

Bài thơ Nhớ Chùa, thi sĩ Huyền Không viết ở Sài Gòn năm 1956, thuở ông còn rất trẻ, giã từ chùa Thiên Minh ở Huế vào hành đạo ở chốn đô thành. Sau này ông cho in lại vào tập Mây Trắng Thong Dong. Ở đó, bạn đọc thấy tác giả bộc bạch rõ hơn tâm tư tình cảm của mình: “Tôi muốn dành tất cả thơ tôi cho những ngôi chùa suốt đời chung thủy với quê hương, cho làng Phương Lang và những thôn làng mộc mạc đang chia nỗi điêu linh cùng đất nước, cho mọi tấm lòng Phật tử sắt son hộ đạo dựng đời, cho những tâm hồn biết sống gắn bó với thơ”*. Thiền sư viết dòng này ở Los Angeles cuối thu Quý Dậu (1993) nghĩa là hơn 37 năm sau.

Sắt son gắn bó đời mình với thơ, với mái chùa thân thương, nhà thơ Trụ Vũ từng phát biểu:

Mỗi khi nhìn thấy bóng ngôi chùa

Tôi lại thấy quê hương mình hiển hiện

Mây phương đông vẫn lên hường

Ngôi chùa còn đó quê hương vẫn còn

(Trụ Vũ – Quê Hương)

Cứ nhìn thấy bóng ngôi chùa là lập tức thấy bóng hình quê hương mình hiển hiện. Và hiển hiện là hiển hiện giữa một vòm khí hậu huy hoàng rực rỡ: mây hồng phương Đông, phương trời tâm linh của Trời Phương Ngoại.

Với lối kiến trúc đặc biệt, những ngôi chùa bao giờ cũng ẩn giấu sau lũy tre xanh, dưới gốc cây đa, ở một nơi thanh tịnh như bản chất khiêm cung, mộc mạc hồn nhiên, thích ứng và hòa hợp của Phật giáo, mái chùa còn chất chứa một sức mạnh vạn năng của đời sống tâm linh và tư tưởng Việt:

Mái  chùa che chở hồn dân tộc

Nếp sống muôn đời của tổ tông.

Lấy nền tảng tư tưởng đạo Phật làm nền tảng lý tưởng đời mình, trọn đời hiến thân xứng bậc sứ giả Như Lai, hoằng dương Phật pháp… nhà thơ đã dắt dẫn bạn đọc từng bước từng bước thấy hình ảnh ngôi chùa chan hòa làm một với quê hương làng nước Việt Nam, gắn bó thủy chung trước sau như nhất với văn hóa, với dân tộc Việt Nam. Tác giả sống trọn đời mình với tâm thức ấy, nên dù cho đi bất cứ nơi đâu, dù xa ngàn dặm, bất cứ thời điểm nào, có thể hàng vài ba mươi thập niên… chỉ nghe thấy tiếng chuông chùa vang lên văng vẳng đâu đó là tác giả nhớ ngay đến ngôi chùa, không chỉ ngôi chùa làng Phương Lang, mà còn biết bao nhiêu ngôi chùa thân thương khác nữa. Vì tất cả mọi ngôi chùa đều là những mái chùa chung. Do đó nhà thơ đã khép lại bài thơ của mình bằng một chân lý bất di bất dịch:

Chuông vẳng nơi nao nhớ lạ lùng

Ra đi ai chẳng nhớ chùa chung

Mái chùa che chở hồn dân tộc

Nếp sống muôn đời của tổ tông.

Theo: Tập san Pháp luân 79

Buổi tu học đầu tiên

2016-11-07 in Hình ảnh

Vào ngày chủ nhật, 06-11-2016 lần đầu tiên chùa Đạo Viên, Alexandria, Virginia, Hoa Kỳ đã chính thức vào thời khóa tu hoc. Kết thúc buổi tu học, đại chúng được thưởng thức món bún Huế do phật tử Nhuận Viên Hoa cúng dường.

20161106_14202020161106_14502520161106_14513520161106_15190820161106_15215220161106_15220220161106_15233820161106_15243020161106_15245520161106_16364220161106_163707IMG_2288IMG_2291

IMG_2293